Sau khi viếng CHAMPAGNE-ARDENNE ngày 08-9-2013, phái đoàn Việt-Nam, đa số từ phương xa đến (Mỹ, Úc, Hoà-Lan, Việt-Nam) tham dự cuộc du ngoạn Normandie, do Văn Phòng Liên Đới Xã Hội VN tại Paris tổ chức. Ngày 09-9-13, ghé PICARDIE, viếng Đô thị AMIENS, trước khi đến Normandie, nơi đổ bộ của Đồng minh lúc Thế chiến II.
I.- PICARDIE.
Picardie là một tỉnh xưa của Pháp, gồm nhiều vùng nhỏ :
Le Vermandois, vùng Amiens le Valois, le Santerre, le Ponthieu, le Boulonnais
và la Thiérache.
Thoạt tiên, từ 1185, Philippe Auguste ngự trị một phần đất trong Trận chiến «Trăm
năm Pháp-Anh», sau đó là «Pháp-Bourgogne»
(Franco-Bourguignonnes). Sau khi Charles le Téméraire chết năm 1477, Picardie
nhập chung với La Couronne. Kế đến, là nạn
nhân của Thế Chiến I, với trận chiến 1914 (Course à la mer), 1916 (Somme) và
1918 (Montdidier).
a/- ĐỊA DƯ.
Về địa dư, Picardie ở giữa các vùng la Canche, l’Oise, le
Thérain et le Bresle.Là một phần đất phía Bắc của Vịnh Parisien, Picardie là cao nguyên có chất vôi phấn (craie), trên
mặt đất có phủ lớp phù sa, thuận lợi cho canh tác (lúa mì, củ dền, và mía làm
đường).
«LA SOMME» (80) là hành tỉnh của vùng Picardie, đô thị là
Amiens, tỉnh lỵ các quận Abbeville, Montdidier, Péronne.Diện tích là 6.170 km2, dân
số lối 550.000,tỉnh này trực thuộc Đại-học viện về văn hóa, và Toà Sơ Thẩm về
Pháp chế tố tụng, với Đô thị Amiens, và phương
diện quân sự với Lille.Sông Somme dài 245 km , chảy ra biển Manche, tại Vịnh «Baie de
la Somme» là nơi kịch chiến tấn công thắng trận của lực lượng đồng minh Anh-Pháp
tháng 11-1916, bảo vệ trận Verdun (Thế chiến I-1916), tại La Meuse (LORRAINE). Ngoài
ra tháng 6- 1940, tại La Somme (Thế chiến II) đã xảy ra những chiến trận hãi hùng tàn khốc giữa Pháp và Đức.
b/- LƯỢC SỬ.
Lịch sử PICARDIE được tóm lược qua 5 thời kỳ :
1.- TỪ THƯỢNG CỔ ĐẾN TRUNG CỔ
-- 200.000 trước TL :
Nhân loại xuát hiện tại Picardie.
-- Từ 600 trước TL :
Văn minh "Gauloise" bắt đầu.
Năm 250 trước TL : Dân Bỉ chiếm miền Bắc sông Seine, và lập
các oppidums, tức thành phố bảo vệ quanh bởi hầm hố.
-- Năm 27 trước TL.Thành lập thành phố Samarobriva (tên La-tinh
của : Amiens)
-- 481- 486 : Chiến thắng của vua CLOVIS, chúa tể dân
Francs, và vua duy nhứt toàn nước Gaule, (Ông
được Thánh St..RÉMI phong vương tại Reims), và được gọi là vua tàn bạo
Thiên chúa giáo đầu tiên (roi barbare catholique).Thời kỳ sản xuất bình lọ, và
đặt tỉnh Aisne là đô thị dân Mérovingiens.
-- 768.Charlemagne
được phong vương dân Francs trong Đại Thánh Đường NOYON.
-- 987- (2- 07) : Hugues
Capet được phong vương.Dòng họ Capétiens được lập.
-- 1150 : Niên kỷ đầu tiên
Đại Thánh Đường Picardie tại
NOYON (Thánh Đường xưa nhứt).
-- 1186 : Hiệp ước BOVES
chia Picardie giữa Vua và Flandre.
-- 1272 : Do hôn ước , Ponthieu thành dân Anh.
-- 1328 : Vua Pháp Charles IV từ trần, không người kế vị.Philippe
le Valois nối ngôi
-- Từ 1337 đến 1453 : Pháp và Anh hiềm khích xích mích do 2
nguyên nhân chánh :
yêu sách của Anh đòi chiếm
ngôi vua Pháp do Edouard III (Anh),
và chiếm cứ các thị trấn giàu tại Flamande sản xuất nỉ, qua sự bang giao thương
mãi với Anh.
2.- CHIẾN TRANH TRĂM NĂM GIỮA PHÁP-ANH
Năm 1337 : Vua
Philippe Le Valois chiếm Guyenne và
Ponthieu vì vua Edouard III phản bội. Vua này xâm chiếm St.Quentin và Laon.
Ngày 26-8-1346, Anh sang miền Bắc vùng Somme, đánh bại quân
Pháp tại trận CRECY tại Ponthieu.
-- 1360
Pháp nhượng Ponthieu cho Anh.
-- 18- 8-
1429 :Sau khi dự phong vương tại REIMS , Jeanne d‘ Arc hướng dẫn vua Charles V II để long trọng vào Compiègne.
-- 23- 5-1430
: Jeanne d’ Arc bị Anh bắt giữ tại Margny- Les- Compiègne, và đưa đến ROUEN để xử
tội và thiêu sống.
-- 1435 :
Hiệp ước ARRAS
chấm dứt chiến tranh giữa dân Bourguignons (hầu tước Bourgogne ) và dân Armagnacs (hầu tước
Orléans). Trước thời gian này nước Pháp bị phân chia thành 3 khối thuộc : Anh , Bourgogne
và Pháp.
-- 1461 : Cuộc tranh chấp Franco-Bourguignon lại
được tiếp tục giữa các hậu duệ Charles le Téméraire, con của Philippe le Bon và
Louis XI con của Charles VII.
-- Ngày 29-
8- 1475 : Anh và Pháp ký hiệp ước
Picquigny một làng của vùng La Somme, chấm dứt chiến tranh 100 năm Pháp Anh.
-- 1483 :
Charles le Téméraire chết, con gái kết hôn với một hoàng tộc Habsbourg, ký hoà
ước ARRAS hoàn trả Picardie cho vương quốc Pháp.Hoà ước này không được
tồn tại lâu đời.
-- 1519 :Charles Quint lên ngôi, tham vọng lấn chiếm đất
miền Nam Hoà-Lan (Pays Bas).
-- 1529 : François 1er bị Charles Quint bắt làm tù binh, nên
phải nhượng các tỉnh vùng La Somme.
-- 1557 ; Chiến tranh tàn khốc tại St.Quentin giữa Philippe II, kế vị Charles Quint, vua
Espagne và Henri II, con vua François 1er.
3.- CHIẾN TRANH TÔN-GIÁO, CÁC VƯƠNG QUỐC VÀ Y-PHA-NHO
Từ TK XV đến TK XVIII
, vùng Picardie là nơi tranh chấp giữa
giặc nội chiến, và ngoại xâm.
-- 1562- 1598 :Cuộc Tôn giáo chiến (guerre des
Religions) xảy ra, đưa Picardie
vào giai đọan hãi hùng.
-- 1589 :Henri de Navarre, thành quôc vương Pháp, sau khi khởi chiến với tư cách Thủ-lãnh
đạo Tin-Lành, vương hiệu là Henri IV. Kết hôn với bà Marguerite de Valois, tái thiết lại đồn lũy tại CREPY mà Ông đã nhiếu lần phá-hủy. Hoà
ước NANTES chấm dứt Tôn giáo chiến.
-- 1618- 1648 :Trận chiến Pháp - Y-pha-Nho bùng nổ.Miền
Bắc Aisne và vùng Somme bị chiếm
cứ.
-- 7-11-1659 : Hoàn
đàm ký tại
Pyrénées hoàn trả Picardie cho Pháp.Các xưởng dệt thảm được
lập tại Beauvais, và làm kiếng tại St. Gobain (Aisne).
-- 1- 10- 1.800 : Pháp Mỹ ký thoả hiệp tại Mortefontaine.
-- 27- 3- 1.802 : Hoà ước Anh-Pháp được ký kết tại Amiens.
-- Tháng 3- 1810 : Napoléon 1er đóng đô tại Compiègne (60.200), tỉnh lỵ Oise.
-- 1846 : Napoléon III bị giam tù 5 năm tại Compiègne, giả dạng thợ hồ thoát,
và cư ngụ tại nơi này.
-- 1870 : Trận giặc Pháp-Phổ (Đức xưa ) khởi
chiến : Picardie bị Phổ chiếm
-- 1871 : Jules Verne đến cư ngụ tại Amiens
4.- THẾ
CHIẾN I và II
a. /.-
THẾ CHIẾN I.
-- 3- 8-
1914 : Đức khai chiến với Pháp.
-- Tháng 9-
10-1914 :Phe Đức quốc xã chiếm
Picardie.
--
1-7-1916 :Trận chiến thảm khốc tại
vùng La Somme :ngày đầu tiên chết hơn cả vạn người, đa số là gốc người Anh,
khước từ quốc tịch họ.
Sau vài
tháng, tử trận hơn 1 triệu 2 trăm ngàn người.Nạn nhơn đa số là tù binh, thương
binh.
+ Lực lượng
Đồng Minh tham dự Thế Chiến I Tại La Somme gồm lối 30 nước tham dự :
-- Pháp và
thuộc địa (Burkina (Phi), Côte d’ Ivoire , Guinée , Mali ,
Nigeria , Sénegal, Việt Nam , Madagascar , Algérie, Tunisie và Maroc).
-- Vương
quốc Anh và liên hiệp Anh : Nam Phi,
Australie, Canada, Tân Tây lan, Ấn độ, Birmanie, Pakistan, Barbados, Rhodésie
Cộng hoà Ái nhĩ lan).
-- Nga, Bỉ,
Ý, Hoa kỳ, Trung-hoa, Ai cập.
-- Lính
tình nguyện từ các nước khác : Y pha nho, Catalans, Roumanie, Thụy sĩ,
Thụy điển, Monténégro …).
--
1917 : Tướng Pháp NIVELLE phản
công tại Chemin des Dames và thảm bại.Quân
dội Pháp bị tử trận rất nhiều, vì chiến đấu dưới đường hầm.
-- 26-3-
1918 : Tại Doullens, Tướng FOCH và các tướng lãnh Đồng minh đoàn kết lập
lực lượng dưới sự chỉ huy duy nhứt của
Tướng FOCH để chống sự tấn công của tướng Đức Ludendorff.
-- 27-4-
1918 : Quân đội Úc ngăn chận bước tiến quân Đức tại Villers-Bretonneux.
-- Ngày 11-
11- 1918 : Đồng Minh và Địch quân Đức ký hiệp ước đình chiến tại rừng Compiègne, trảng Rethondes
trong một wagon , chấm dứt Thế Chiến I.
b./- THẾ
CHIẾN II.
-- Tháng 5-1940 : Amiens
lại bị Đức dội bom dữ dội, phá hủy hơn nữa gia cư. Nhưng Đại Thánh Đường Amiens vô sự. Đại tá De
Gaulle định phản công tại Montcomet (Aisne).Nhưng Đức đã tiến qua khỏi vùng
Somme.Tháng 6 phi cơ Đức phá hủy Beauvais .
Đức chiếm St.Quentin (Đông Amiens ). Dân chúng
Pháp tản cư xuống phía Nam
tại Compiègne lánh nạn.
Ngày 22-6-1940, HITLER buộc Pháp ký hiệp ước Đình
chiến tại COMPIÈGNE trong một wagon
FOCH ( trả đủa vụ 1918 ). Picardie bị Đức chiếm cứ và biến thành vùng cấm địa miền Bắc vùng SOMME .
Năm 1941 :
Đức lập trại Tù Binh tại Royallieu
Ngày 27- 5-1944 : Amiens
bị dội bom dữ tợn và kháng chiến quân
Pháp bị tiêu diệt.
Ngày 08-5-1945 : Đức đầu hàng lần cuối cùng, sau khi Đồng Minh giải phóng ST.Quentin, Amiens, Laon và Compiègne
Ngày 08-5-1945 : Đức đầu hàng lần cuối cùng, sau khi Đồng Minh giải phóng ST.Quentin, Amiens, Laon và Compiègne
c./-- THẮNG
CẢNH.
Những đặc
cảnh các Thế Chiến I và II tại vùng
SOMME đuợc trình bày trong viện
Bảo Tàng PÉRONNE,một quận vùng SOMME, nay đã bị hủy diệt sau Thế Chiến I,sau
khi được quân Úc giải phóng ngày 2- 9-1918.Viện Bảo Tàng lịch sử được Hội đồng
Thành phố lập năm 1992.Những Nghĩa địa do các quốc gia đồng minh tham dự Thế
Chiến I gồm các nước :Nam Phi, Anh, Pháp, Úc,Mỹ, Trung-Hoa …. và kể cả Đức quốc
xã.
Tại Vùng
Somme, gồm tất cả 410 Nghĩa trang Đồng
Minh, 22 của Pháp và 14 của Đức. Ngoài ra
còn có các Tiểu Giáo đường Pháp (Chapelle tại Rancourt), Thánh đường Notre Dame
de Lorette (Pas de Calais) cạnh Nghĩa trang chôn 45.000 lính các nước thuộc địa
Pháp xưa, đa số là Phi châu.Trên nghĩa địa, chỉ thấy hàng hàng lớp lớp Thập tự
trắng, và phía sau Nhà Thờ, còn lưu giữ một quan tài lính gốc Việt-Nam !
Được dịp
nghe phụ huynh VN xưa kể lại là thời Thế chiến I, tại Việt-Nam, Pháp
truyền lịnh bắt dân sang Pháp để tham dự
Đệ I Thế Chiến. Ở làng quê tỉnh Biên-hòa, khi trai tráng bị bắt thăm mộ lính,
nếu rủi-ro dính trúng thăm, trước ngày Bác sĩ khám sức khỏe, tìm cách thoát nạn
: Họ nhờ Thầy thuốc Nam cho nhỏ một chất nước vào mắt, ngày hôm sau
mắt sẽ đỏ lòm. Hoặc thoa ngoài bao da dịch hoàn một chất nước, là ngày hôm sau
khi khám sức khỏe, sẽ sưng to.Như thế là miễn dịch, khỏi bị mộ bắt lính. Có
người dám cả gan, chặt đầu ngón trỏ tay mặt, một lóng tay, thành tàn tật, để
khỏi đi vì không bóp được cò súng để bắn giết giặc !. Còn con gia đình
giàu tại Hậu giang, Có tiền của, thì lẫn trốn sang Tàu để khỏi bị bắt lính đưa vào chổ chết.
Phái đoàn
du ngoạn VN, vì thời gian hạn hẹp, không có dịp viếng các nơi nghĩa trang trên,
chỉ tạo thêm mặc cảm buồn, mà chỉ xem thắng cảnh tại Amiens , đô thị vùng La Somme, PICARDIE.
1./- ĐÔ
THỊ AMIENS .
Sau khi
viềng vườn nho tại Epernay (Champagne), xe Văn Phòng
Liên Đới Xã Hội Paris tiếp tục hành trình
trực chỉ đến Đô thị AMIENS lúc 19
giờ, là thời gian bắt đầu mưa nho nhỏ.Vì
lo ngại trể giờ ăn chiếu nếu mất thì giờ cất hành lý tại khách sạn Balladins,
nên phái đoàn đến thẳng nhà hàng Buffet
tên ROYAL LONGEAU, Zac Pôle Jules Verne tại quận Longeau (Amiens) kế cận
khách sạn.Tiệm ăn do nữ chủ nhơn Tàu quản lý, thực khách mặc tình ăn tự do thoả
thích, nhiều thức ăn tùy ý cá nhân. Có cả món chiên xào theo kiểu Tàu,
Nhựt nấu bằng chảo to lửa ngọn (Wok) với
giá một bữa ăn tự do là 15 E mỗi người. Sau đó về khách sạn ngũ ngon, sau
một ngày hành trình xa mệt nhọc. !
ĐẠI THÁNH
ĐƯỜNG AMIENS .
Giữa thời
đại 1140 đến 1260, sự nhiệt tình thiết lập Thánh Đường tại Âu-châu rất sôi nổi. Riêng
tại PICARDIE là đất thánh đã tập trung sự kiến thiết 6 Đại Thánh Đường, cất
kiểu gô- tích sang trọng, tại Amiens,
Beauvais, Senlis, Noyon, Soisson và Laon.
Nhà Thờ Đức
Bà AMIENS là một kiến trúc duy nhứt, vĩ
đại trên hoàn cầu.
Năm 1981,
được UNESCO liệt hạng kỳ công kiệt tác của nhơn loại, Đại Thánh Đường
Amiens là một kiến trúc tham vọng nhứt
tại Pháp và thời Trung-cổ, và là một kiểu mẫu để thiết lập các Thánh Đường khác.
Khởi sự xây
cất từ 1220, dưới sự hướng dẫn Đức Hồng-
Y Evrard de Fouilloy, đại công tác này được hoàn thành vào năm 1288, tức gần 70 năm sau, do các Kiến
Trúc sư danh tiếng Pháp hợp tác.
Những dữ-
kiện sau đây chứng minh sự kiến trúc vĩ đại của Nhà Thờ Đức Bà AMIENS :.
-- 7.700 m2 về diện tích, 200.000 m3 về thể tích
bên trong Nhà Thờ (2 lần lớn hơn Nhà Thờ
Đức Bà PARIS).Chiều dài : 145
m , chiều ngang : 14,6 m tại chánh điện, 42, 3 m chiều cao từ vòm bầu (thấp hơn Nhà Thờ Beauvais :48 m), 70 m bề ngang gian giữa của
giáo đường,112, 7 m chiều cao từ mặt đất giữa giáo đường đến tận
chỏm hình mũi tên chỉ
hướng gió (coq de la flèche).
Mặt tiền
Nhà Thờ đẹp như hoàng cung tráng lệ. Bốn nền đá chồng chất dày 12
m chịu đựng sức nặng mặt phía tây Thánh dường mặt trước.Hai
Tháp xây cao, 62 m
và 67 m ,
ở hai bên nền.
Mặt tiền
được lau chùi nhờ kỹ thuật tẩy uế bằng ánh "laser", cách thức duy nhứt áp dụng tại Nhà Thờ Amiens, không làm hư
hỏng đá kiến trúc khi chất nước hóa học xuyên qua lổ nhỏ đá. Hình tượng khác
trên đá có hơn 3.000, thuật lại
truyện Thánh thư.
Cửa chánh Nhà
Thờ, được đặt tên Portail du Beau Dieu (hay Sauveur).Là một kiến trúc
chạm khắc công phu Đức Chúa Trời, vây
quanh bởi các Sứ-Đồ (apôtres), và các Thánh Tiên tri (Prophètes), theo cựu
Thánh thư.
Cửa bên
trái được gọi là ‘’Portail du St. Firmin , Đức Hồng Y Amiens đầu tiên từ
TK III. Vị Thánh
này được bao quanh bởi những kế vị :Honoré bên trái, Firmin le Confesseur bên phải, và những Tu sĩ, ít nổi tiếng, như
Ache và Acheul (bị chặt đầu) và nữ Thánh Ulphe. Cửa bên
phải được mang tên "Portail de la Mère-Dieu",
với hình tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và Con.
Trên đỉnh
chỏm nóc Nhà Thờ (Flèche), một sự tích sau được kể : Năm 1538, bị sét đánh cháy, mũi hình tên, trước được làm
bằng gỗ cây sồị (chêne) trước
TK XVI, cao độ 112 m ,
được làm lại bằng gỗ sồi theo truyền thống, nhưng được bọc bằng chì, mà quanh
mặt đáy có chạm 8 ảnh tượng : Đức Chúa , St. Jean Baptiste, St.
Jacques de Compostelle, St.Paul, một
Hồng Y St.jean l’ Evangeliste, Đức mẹ và
St.Pierre. Chi phí trùng tu này được các thương gia đương thời sẵn sàng chung
góp.
Vào trong
Nhà Thờ, du khách sửng-sốt nhìn thấy vòm bầu nóc hình cung nhọn, cao tận 42, 5 m từ mặt đất.Một đặc điểm là
ánh sáng xuyên qua cửa kính, tỏa nhìn rõ
dung tích vĩ-đại bên trong.Tuy chiều cao thấp hơn vòm bầu Nhà Thờ Beauvais (48
m ), nhưng nơi này đã bị sập vỡ một phần từ 1284.Giữa
chánh điện lối đi quanh co, đơn giản thực hiện từ TK XIII, tái thiết bằng cẩm
thạch đầu TK IX.Theo truyền thuyết, lối đi
dành cho tín đồ Thiên chúa giáo có chiều dài là 234 m bắt buộc đi trên lằng
đen vẽ trên nền đất, dành cho người hành hương đi lễ, không có phương tiện khả
năng viếng Jérusalem.Hai bên lối vào phải trái của Nhà Thờ, có đặt 2 tượng đồng
nằm dài của Ô.Evrard de Fouilloy, Hồng
Y lập Đại Thánh Đường (bên phải),
và tượng Ô.Geoffroy d’Eu (bên trái), người tiếp tục công trình xây cất.
Phía sau
hậu điện có một phòng hành lễ theo giờ
ấn định mỗi ngày, do một Đức Cha chủ lễ,
cho các tín đồ đến dự. Trên vách tường,
những khung kính đủ màu, hình ảnh đứng
sắc xảo, được thực hiện và gắng chắc do
công trình điêu luyện của thợ chuyên môn.
Ánh nắng
bên ngoài xuyên qua hình màu phản chiếu
màu sắc trông tuyệt vời.
Một đặc
điểm của Nhà Thờ Đức Bà REIMS, được kiến
trúc tại một trong các Tỉnh giàu nhứt tại nước
Pháp. Đó là nhờ những thương gia sản xuất giạ nỈ (drapiers), và những
nông gia waidiers) trồng loại cây mà sau khi bào chế, tung ra thị trường bán
một chất sơn bột sắc xanh quý giá, được gọi là “màu xanh Amiens” hay “thỏi phấn
màu xanh Amiens” (‘”bleu d’Amiens” hay “pastel amiénois”).Ngoài ra có lẽ nhờ
thiên ân, mà Nhà Thờ vĩ đại kiểu thuần cổ điển
‘’ gô tích ‘’, này được thoát nạn, không bị tàn phá bởi Cách mạng Pháp,
và sau hai cuộc Thế Chiến.Số là năm 1918, sau khi Hồng Y Pháp yêu cầu, Hoàng Đế
Đức Guillaume II (kaiser) ra lịnh pháo
binh Đức tránh phá kiến trúc Đại Thánh
Đường Amiens.
Và năm 1940,
khi Đức dội bom đã thiêu hủy hầu hết cao ốc Đô thị Amiens, và chừa yên Nhà Thờ Đức Bà, mà dân Pháp bảo vệ quanh Thánh Đường, bằng cách chồng chất hằng
hà bao cát !
2./- DU HÀNH QUANH THÁNH ĐƯỜNG
Bên sau Nhà Thờ, từ tiền đường Nhà Thờ lộ lát đá hướng
dẫn du khách viếng cảnh khu Saint-Leu (quartier St. Leu), khoảng cách giữa
Nhà Thờ và sông Somme.Tại góc hẻm, còn
thấy di tích hai ngôi nhà cát kiểu tân gô-tích, mà cuộc dội bom Đức đã chừa tàn
phá, vì vị trí cạnh Nhà Thờ, trong khi tất cả xóm đều bị thiêu hủy, và được cất
lại từ 1950.
Khu quartier St.Leu đã được lập cạnh bờ sông
Somme từ thời Trung-cổ, đã sống khổ, bị lảng quên gần 50 năm sau Thế Chiến II.Dân
cư chỉ sống nghề xay bột, thuộc da, thủ
công, nghệ thuật.Mãi đến gần 20 năm sau, mới được chấn hưng lại, kéo lôi khách
du lịch bốn phương sau khi viếng Nhà Thờ Đức Bà.
Đến bờ sông
Somme , phái doàn được dịp thấy cảnh thơ mộng
với những ngôi nhà nhỏ xinh xắn, với khu
vườn xanh tươi đầy hoa lá đủ màu sắc.
Hai chiếc cầu bắt ngang sông tên cầu Dodane và cầu Cange.Giữa giòng sông, có thấy một tượng người công nhân được xây đứng giữa dòng sông, lam- lũ, rong rêu vì chịu cảnh phong sương mưa nắng. Có lẽ là tượng kỷ niệm người dân địa phương Amiens đã chịu thống khổ chiến tranh, cuộc sống, hay một nạn nhân chiến cuộc , không phân biệt quốc gia đã bỏ mình sau hai Thế chiến nơi dòng sông nhuộm máu đỏ này.
Hai chiếc cầu bắt ngang sông tên cầu Dodane và cầu Cange.Giữa giòng sông, có thấy một tượng người công nhân được xây đứng giữa dòng sông, lam- lũ, rong rêu vì chịu cảnh phong sương mưa nắng. Có lẽ là tượng kỷ niệm người dân địa phương Amiens đã chịu thống khổ chiến tranh, cuộc sống, hay một nạn nhân chiến cuộc , không phân biệt quốc gia đã bỏ mình sau hai Thế chiến nơi dòng sông nhuộm máu đỏ này.
Hai bên bờ
sông Somme , dẫy đầy quán rượu, nhà hàng từ
nhiều nước Âu châu khác nhau đến mở tiệm cạnh tranh.
Phái đoàn
du ngoạn chụp ảnh lưu niệm cảnh đẹp khu phố sau Nhà Thờ, với những mái nhà,
hiệu buôn đầy màu sắc, và xa xa lộ ảnh nóc Thánh Đường cùng các đặc cảnh trên
sông Somme.
3./- NHÂN
VẬT ĐỊA PHƯƠNG.
Những nhân
kiệt nổi tiếng tại vùng Picardie rất
nhiều.Xin kể một số người mà tiếng tăm còn lưu truyền nhiều nơi :
-- Jeanne d’ Arc
(1412-1431) :Dù không sinh quán tại địa phương, nữ anh hùng này
vang danh trong lịch sử Picardie, nhứt là tại Compiègne, khi bà bị bắt tại
Margny, dẫn dắt đến St. Valery sur
Somme và Rouen để bị xữ và đốt sống.
-- Hugues
Capet (940- 996) :Vua đầu tiên dòng
họ Capétiens, sau trở thành Vua dân Francs.
-- Alexandre Dumas (1802- 1870), văn hào Pháp.
-- Jean de la
Fontaine (1621- 1695) : Tác giả thơ
ngụ ngôn.
-- Dòng vua Napoléon : Napoléon 1er và Napoléon III,
thường cư ngụ nhiếu lần tại Compiègne, nơi đặt
hoàng cung.
-- Jean Racine (1639- 1699) : văn hào Pháp sinh tại xã
Ferté-Milon Aisne (Picardie). học trường Trung học Beauvais.
-- Jean Jacques Rousseau :Thi sĩ Pháp (1712- 1778) : Trải cuộc sống
qua 2 thời kỳ tại Picardie : Trie
Château (1768) và Ermenonville xã
Tỉnh Beauvais, nơi ông từ trần và chôn tại đảo nhỏ nơi này.
-- Jules Verne (1828-
1905) : Sanh tại Nantes hay Amiens ? tác giả nhiều truyện ảo tưởng
đặc biệt TK XIX, và chọn Picardie làm nơi sinh trưởng và vĩnh biệt cuộc đời.
Quản đốc kho tiết kiệm, phụ tá Đặc trách văn hóa, ông được chôn cất tại Nghĩa
trang Madeleine.
Vịnh sông Somme là nguồn cảm hứng phi thường của ông.
4./- ĐẶC CẢNH.
Khi nói đến Amiens , là phải nhắc đến nhà văn Jules Verne.Sanh ngày 08-02- 1828, Jules Verne lên Paris học
Luật năm 1848. Thay vì hành nghề luật gia, ông quen biết Ô.Alexandre Dumas
thích môn hài kịch, tiểu nhạc kịch và
nghiên cứu ham mộ sự tiến bộ của khoa học. Năm 1857 ông kết hôn với bà
Honorine de Viane, phụ nữ gốc Amiens.Năm
1862, ông ký khế ước với ấn quán HETZEL, cam kết mỗi năm viết 3 truyện tiểu
thuyết, quyển đầu là "Cinq semaines en ballon" trong loại truyện "voyages
extraordinaires". Năm 1868, ông sắm chiếc tàu du lịch bờ biển Picardie để viết
truyện "L’Isle mystérieuse".
Sau đó mua thêm 3 chiếc tàu khác để du ngoạn Địa Trung Hải,
để viết thêm những truyện ảo tưởng khác.Tại Amiens Ông viết những truyện tiểu
thuyết nổi tiếng sau : Le Tour du monde en 80 jours, Vingt Mille Lieues sous les mers, Michel Strogoff,
Les Indes noires un capitaine de quinze ans, les Cinq Cents Millions de la
bégum, les Tribulations d'un Chinois en Chine, L’Etoile du Sud, vvv.
Thời gian làm nghị viên thành phố Amiens trong 16 năm, ông
phụ trách chỉnh trang đô thị và văn hoá vụ. Ông đã viết lối 60 truyện tiểu thuyết về Amiens trong ngôi nhà tại Crotoy. Ông đã khôi hài tự đặt danh hiệu "Je suis une bête de la Somme" (Tôi
là một con thú vùng sông Somme).
Do đó, du khách thích du ngoạn xem ngôi nhà xưa ông ở (La
maison de Jules Verne) tại Amiens với trang trí cảnh ảo tưởng truyện ông viết từ vựa chất đồ vật, từng trệt, và hai từng
lầu. Mỗi nơi là cảnh ảo tưởng do ông đặt.Ngoài ra, kế cận nhà, là địa điểm "Le Cirque Jules Verne".
Do đó người địa phương Amiens thường gọi dân Picardie là "Bête de la Somme" theo lời xác nhận
của Nữ Tiếp viên khách sạn Balladins, ở gần vùng ZAC Jules Verne (Zone d’activités commerciales J.V), mà phái đoàn không được
dịp viếng nhà của văn sĩ.Và dân Picardie
(Picards) còn được gọi thường là "Samarin", có lẽ là ông Jules Verne đã viết
trong truyện ông đặt "J’aime errer dans
cette Samarobriva où St.Martin divisa son manteau" tức khi ông dạo các đường tại khu này, hầu tưởng tượng cốt
truyện để viết. Và St. Martin là một nhà truyền giáo được rửa tội tại Nhà Thờ Amiens, mà truyền
thuyết đã nhắc câu ông tuyên bố : "Tôi đã chia xén áo cho một người nghèo địa phương vì lạnh lẽo" mà ông
Jules Verne đã nhắc lại (đúng với câu
châm ngôn VN : chia cơm xẻ
áo !).Về sau Ô.St.Martin là vị Hồng Y tại TOURS. Và SAMARA là danh từ tên Đại Công viên thiên nhiên từ
thời tiền sử tồn tại đến giờ (tên nguyên thủy của Amiens), địa phận rộng 24 mẫu,
dành cho khảo cổ học, cách lối 15 km phía Tây Amiens. Nơi này sản xuất dao đá Silex hai mặt, để tạo ra lửa, mài đồ gốm, vũ
khí xưa dùng bắn như mũi tên (tir à la sagaie).
Rất tiếc la phái đoàn du ngoạn không có thời giờ viếng thắng
cảnh này, dù trọ đêm và ăn tối gần khu
vực Ô Jules Verne ở khi xưa.
Được đặt tại một nhà xưa từ cuối TK XVI gần Nhà Thờ Đức Bà
Amiens, hãng làm kiếng màu, do Ông Claude Barre, chủ nhơn, đã phát triển rất
nhanh loại kiếng dành chưng bày tại các Thánh Đường, và tư nhân sử dụng.Trong
một hầm từ TK XIII, đã lưu trử các loại kiếng, chế tạo từ TK VI, từ Trường dạy TROYES
kiếng nước Anh, kiếng tại Flandres (Bắc
Pháp) TK XVII và địa hạt chủ giáo khu (évêché d’Amiens) từ TK XVII.
+ Kỹ thuật làm kiếng màu : Nguồn gốc bắt đầu từ TK
III trước TN, kiếng trắng được nhận vào giữa đất
nung và đá bạch ngọc (albâtre : màu trắng như ngọc).Từ TK X
và XI, kỹ thuật tối tân hơn : kiếng được lồng vào khuôn.Thợ làm kiếng in trên carton, một mô hình có trải màu trên
lớp chì, theo ý muốn người mua đặt. Nếu
đồng ý màu hình theo kiểu maquette, sẽ được thêm màu sắc hình thật.Hiện nay ;
có tất cả 3.000 mẫu màu sắc khác nhau,
và được cắt bằng dụng cụ chế bởi kim cương thành mảnh nhỏ. Những mảnh này được nung trong lò nóng 600 ° C, độ vài
giờ. Khi lò nguội sẽ được gắng trên khung cửa kiếng theo kỹ thuật chuyên môn. Đây là sự lược thuật cách làm kiếng tại Amiens theo tài liệu.
+ Ngoài những thắng cảnh hay phong cảnh đặc biệt tại Amiens
hay nơi đồng trống mà phái đoàn không có dịp viếng, và xe du lịch rời Amiens
chạy qua để tiến thẳng đến Normandie
buổi trưa 09-09-13, xin thuật thêm hai mẫu chuyện nhỏ tại vùng
Picardie :
+ 4.1.- Săn bắn tại Vịnh sông Somme.
Mỗi dịp hè, người Pháp thích săn bắn, thường đến Vịnh ‘’ La Baie de Somme ‘’ để bắn muông thú
hay chim, bằng nhiều cách :
+ Săn bằng lều vải (toile) : Ngày hay đêm, khi
nước ròng, núp trong lều có phủ lá, bắn chim rừng tụ tập đến gần, bằng tiếng chim giả gọi.
+ Săn bằng lều thùng cây :Cũng như lối trên mà sử dụng
gổ làm hình hòm dài (rương). Chỉ dùng tại Crotoy
nơi Ô.Jules Verne ở (chasse au
hutteau).
+ Săn chim bay qua :(de la passée). Nằm núp nơi kín, chờ
lúc chiều tối, và sáng sớm, tại các ao đầm, khi chim le-le (vịt trời) ăn chập tối, và
sáng bay về tổ, nơi ngủ nghỉ, hay bài tiết.
+ Săn bằng giày ống (chasse à la botte) : Người săn bắn lội bộ mang
giày ống, dẫn chó săn, đến các đầm lầy bắn chim mỏ-nhát (bécassine) hay lội
trên bải cát khi nước ròng bắn chim ăn cá.
Tại vùng
Picardie, trên cánh đồng trống minh-mông, du khách thường thấy loại hoa màu
hồng đỏ, với cánh hoa mỏng-mảnh,
ngả nghiêng theo chiều gíó thổi, phất
phơ trên thân cây thon nhỏ bé gầy, giữa
đồng lá xanh hoang dại.Hoa này được mang tên tại Pháp là Coquelicot (giống
Papavéracées / họ anh-túc).Tự điển Pháp-Việt phổ thông xưa, trước 1975, dịch
coquelicot là hoa mồng gà (hay màu gà).Thật ra hoa Á châu tên này, giống mồng con gà trống màu đỏ, không giống loài hoa tại
Picardie.Sử tích hồng đỏ Picardie này
được thuật như sau :
Tại Authie,
một thung lũng giữa Picardie và Pas de Calais, đầy dẫy ao đầm, có một Tu viện
tên Abbaye de Valloires, trồng nhiều hoa
lạ ; đặc biệt là 2.000 giống hoa hồng.Tu viện này do các tu sĩ dòng Cisteaux, là nạn nhơn
của hai chiến trận Trăm năm Anh Pháp,và 30 năm giữa hai tôn giáo. Được tạo lập
lại từ 1741 đến 1756 vườn Valloires (jardins
de Valloires) có trồng ba loại hồng, được mang 3 tên Thánh khác nhau :
--
1992 : tên Hoa Hồng ‘’ Valloires ‘’ do người trồng hoa tên André
Ève gầy giống.
-- 1998 : Hoa Hồng ‘’ Cistériens ‘’, kỷ niệm 900 năm
lập tu viện Cisteaux.
-- 25- 6-
2004 : ‘’ Hồng Picardie ‘’ ‘’ Rose of Picardy
‘’, do một lính chiến người Anh tên David Austin đặt tên. Số là từ năm 1916, chiến sĩ này là
người toán chót hậu trạm rút quân về Anh.Khi ngang qua làng Warloy Baillon hiu quạnh
(gần Albert), anh sửng sốt thấy giữa cảnh hoang tàn chiến trận, lại có
một thôn nữ tuyệt đẹp Pháp, cầm bó hoa hồng tặng người chiến binh ngoại quốc.Anh
cảm tạ, và hứa về Anh đặt bài thơ kỷ niệm.Anh viết những dòng thơ ca tụng hoà
bình và tình thương mang đầy lời nhắn nhủ, và thơ mộng.Thi phẩm Anh, hai năm
sau được nhà phổ nhạc Anh Haydnwood đặt
thành lời, được dịch ra Pháp ngữ, do các ca sĩ Sidney Bichet, Yves Montand va Tino Rossi.. trình
bày.
Ngoài chiến
sĩ Anh David Austin làm thơ kỷ niệm Thế Chiến I, còn có một quân y sĩ
Gia nã Đại tên John Mc Crac , đặt bài thơ tên ‘’ In Flanders ‘ Fields ‘’, chiến trận Flandres năm 1915, để nhớ đến
‘’ Hoa Poppy ‘’.Và một thi sĩ khác, Alphonse Bourgoin cũng đặt bài thơ ‘’
Corn’flowers of France ‘’, (Hoa tím dại) năm 1916 để lưu niệm.
Đúng lá các chiến sĩ đa tình !
Theo lờii Bác sĩ Lại mạnh Cường, người hướng dẫn
phái đoàn đồng nghiệp Bác sĩ cùng niên
khoá du ngoạn, đã từng đến Picardie,
thuật lại sau khi nghe người địa phương kề, các loại hoa hồng dại này đã được
tồn tại, nhờ máu chiến sĩ đã đổ quá nhiếu thấm đất, và hoa nuôi dưỡng nhờ nhựa
do thân cây hút, biến cánh hoa thành màu hồng đỏ. Ông đã có lý là dịch
Coquelicot là hoa màu mồng gà không đúng,
và hỏi phái đoàn nên gọi tên gì ? Theo thiển ý, nếu hoa hút máu, tại sao không gọi là "Hồng
huyết hoa" như danh từ Hán việt (Y khoa) gọi Hồng huyết cầu ?
Phái đoàn
rời Amiens (Picardie) trực chỉ đến bãi biển Honfleur thuộc Normandie để viếng cảnh vùng này vào ngày 10-9-2013 (ngày cuối và ngày chánh của chương trình du ngoạn miền Bắc Pháp).
II.-
NORMANDIE.
Vùng bị quân La-Mã
chiếm đóng bốn thế kỷ, sau khi bị quân ngoại xâm đến chiếm đoạt từ
TK IX, tiêu hủy bởi trận chiến 400 năm
Anh Pháp và kịch chiến dữ dội khi Đồng Minh đổ bộ, sau Thế chiến cuối cùng.Vùng Normandie ngày nay đã trải qua nhiều cơn biến
động.
A.- LỊCH SỬ.
Lược trình
niên kỷ sử lược được tóm tắt như sau :
1.- NGUỒN
GỐC :
-- 400.000 năm trước TL, di tích nhơn loại đã
lưu lại tại vùng này.
-- 6.000
trước TL (Thời đồ đá) : Dân du mục lùi bước, nhường dân định cư sống nghề canh
nông, chăn nuôi, lập làng.
-- 3.600
trước TL : Tảng đá lớn (thạch bài) được dùng xây cất lót đường.Vũ khí được đào
tìm : búa riù, mũi tên sắt.Dân Danubïens định cư.
-- 2.500
trước TL (Thời đồ đồng):Vùng đầy rừng
cây, sông ngòi thông thương. Đồng được pha chế để đúc khí giới,làm dụng cụ.
-- 500 đến
400 trước TL : Dân Celtes đến cư ngụ đông, vì họ biết chế tạo đồ sắt.
2. TỪ THỜI
LA-MÃ ĐẾN THIÊN CHÚA GIÁO :
-- 58 đến
51 trước TL : Quân La-Mã đến chiếm 400 năm.
-- 27 sau
TL : Một phần Normandie trực thuộc dân nước Celtes (Tây Nam
Đức xưa), trong khi địa phận trên sông Seine, thuộc nước Bỉ. Rouen
là đô thị La-Mã tên La Lyonnaise
-- TK I- II
: Lập tỉnh thành, dân Nordique (miền Bắc
Âu) xâm nhập, quốc gia được Thiên Chúa
giáo hoá. Điạ hạt chủ giáo tại Rouen.Dân Scandinaves (cũng gọi Wikings) từ các
xứ Thụy Na Đan đột nhập, sau này được gọi là
‘’ Normands ‘’.
-- 852 :
Vùng St.Wrandrille bị phá hủy, các tu sĩ
đến Mont St.Michel ở.
-- 1035- 1087 :Thời đại vua Guillaume le
Conquérant thống nhứt Normandie, đặt định chế và chấn hưng kinh tế.
--
1066 : Vua Guillaume đánh bại quân Anh tại Hastings và được phong vương 25- 12-1066.
-- 1087-
1135 : Vua Guillaume le Conquérant
chết (1087) những kế vị làm sức mẻ bang
giao Anh Pháp.
3.- HỌ
PLANTAGENETS VÀ CAPÉTIENS.
--
1105 : Henri 1er Beauclerc, con thứ
tư vua trước lập vương quốc Anglo-Normand
,
thời gian
30 năm.Khi Ông chết, con gái là Mathilde
thừa kế, kết hôn vớí
Geoffroi Plantagenet.
-- 1152- 1154 : Henri
II Plantagenet, quốc vương Anh,
Hầu tước Normandie và Aquitaine, công
hầu Anjou. Ông kết hôn với bà Aliénor d’
Aquitaine, nới rộng lãnh thổ vương quốc Anh từ Ecosse đến Pyrénées.
Normandie biến thành
vùng chiến thuật giữa dòng họ Plantagenets và Capétiens, từ hậu bán TK XII, và
biến thành chiến tranh 100 năm Anh- Pháp.
4.- CHIẾN TRANH TRĂM NĂM. (1337- 1453).
-- 1337 : Chiến tranh khởi sự, Normandie là trung tâm
điểm chiến trường.
-- 12- 7-1346 :
Vua Édouard III
Anh chiếm Normandie
-- 1348 : Bịnh dịch hạch hoành hành địa phương này và Vua Édouard III
lui binh, chỉ còn giữ những đảo Anh-Normandie.
-- 1364-1378 :Các trận chiến Anh Pháp tiếp diễn
-- 1417 : Vua Henri V
Anh tiến chiếm CAEN, BAYEUX, ARGENTAN, Alençon, Falaise EVREUX
và HONFLEUR của Pháp.
-- 30- 5- 1431 : Nữ
anh hùng Jeanne d’ Arc Pháp bị thiêu sống tại ROUEN.
--1432 : Vua
Henri VI Anh lập Trường Đại
Học CAEN.
-- 1435-1449 : Quân dân Pháp chồng cự quân ngoại
xâm Anh.
-- 1449 : Vua
Charles VII, lấy lại ROUEN. Và năm sau chiếm lại tỉnh chót Cherbourg (1450
).
-- 1515 :Hội-kế
Pháp Viện Anh (Echiquier) được Thượng
Viện Normandie thay thế.
-- Từ 1506 đến
1682 : Tàu thủy Pháp khởi sự từ hải cứ điểm Le Havre, khám phá Thế giới (Martinique
, Đông Ấn-độ, Ohio, Mississipi, Louisane..).
5.- TỪ CÁCH MẠNG PHÁP ĐẾN TK XIX :
-- 1863 : Khai trương năm lập nhà gare Deauville-Trouville.
-- 1870- 1871 : Chiến tranh Pháp Đức. Đức chiếm vùng
Haute Normandie.
-- 1944 : Đồng Minh đổ bộ ngày 06-06-1944 : Quân Đức bị bại trận tại Falaise từ
ngày 19-8- 1944 đến
21- 8- 1944, và đầu hàng, sau trận cuối Thế chiến II tại CHAMBOIS
vô cùng tàn khốc đẩm máu (hơn nhiều vạn người đôi bên tử trận).
B.- DU NGOẠN NORMANDIE.
1. Diạ dư : NORMANDIE nói chung rất rộng lớn, gồm 9
khu vực
từ Đông sang Tây :
a /.-+ Phía Đông : Le Vexin Normand et le Pays de Bray (giáp ranh với SOMME và OISE .
+ Đông Bắc : Giáp với biển Manche và dọc dài từ Le Tréport
đến Le Havre :
Le Havre et la Côte Albâtre.
+ Từ Bắc xuống phía Đông Nam : -- Rouen và Pays de Caux
-- Le pays d’ Ouche
và Vallée de L’ Eure.
b /..Phần giữa từ
trên xuống dưới :
-- Côte Fleurie et pays d’Auge.
-- Du Perche au Domfrontais.
Kế cận : -- Côte
de Nacre et le Bessin.
-- Caen et Suisse Normandie.
c /..Phiá Tây :--
Le Cotentin et le Mont St. Michel
(nhập chung).
Vì địa phận quá lớn, nên hiện nay, vùng Basse Normandie gồm
5 vùng từ Đông sang Tây : Côte Fleurie et Pays d’Auge, Orne, Côte de Nacre
et Suisse Normandie Cotentin và từ Mont St. Michel đến St.
Lô.
2. Địa chất :
Trên phương diện địa chất, Normnadie gồm 3 vùng, căn cứ theo sự cấu kết cuộc
đất :
+ La Normandie
Armoricaine (Tây), có dãy núi Massif armoricain , nhưng nhờ thế đất được có gần 20 rạch lớn đổ ra biển, bồi đất
phù sa nên tạo nhiều đồng bằng gần bờ
biển .
+ La Normandie Sédimentaire, do ảnh hưởng lưu vực vịnh
Parisien, có nhiều lớp nham kết tầng,
nên có nhiều sỏi đá, cát và bùn, ngoại trừ cạnh bờ sông Seine đất phì nhiêu.
+ Le Littoral : Bờ biển dài 580 km (9,5 % chiều dài bờ
biển nước Pháp).
-- Từ miền Bắc mũi La Hève (gần Le Havre), bãi biển lài bằng,
nhờ tường đá phấn vôi Le Tréport.
-- Từ HONFLEUR đến
mũi La Hagne (gần mõm lồi cao TONNEVILLE,vùng Đồng Minh đổ bộ) cuộc đất được xen kẻ thành đá (falaise), cát và đá lồi lõm.
-- Bờ kế tiếp có nhiều bãi cát, xen lẫn đầm lầy (từ Nez-de
Jobourg / COTENTIN thẳng xuống).
3.Thắng cảnh.
Vùng NORMANDIE là địa
phận Pháp tại miền Tây Bắc Pháp, rộng lớn, gồm 9 khu vực như đã kể trên.Thắng
cảnh rất nhiều, không thể tả xiết hết, xin kể một vài nơi mà phái đoàn đã quá
bộ và ghé trọ, xem viếng, để quý du khách có một ý niệm biết nơi đã qua.
-- Côte d’ OPALE : từ Pas de Calais (Bắc Pháp) xuống tời Dieppe.
-- Côte d’
Albatre : từ Dieppe đến Le Havre)
-- Côte
Fleurie : từ Le Havre đến Baie de
l’Orne ).
-- Côte de Nacre : từ Sword Beach đến Cherbourg.
-- Côte d’ Emeraude : từ Beaumont đến St. Brieuc
sau St. MALO.
Hải cảng HONFLEUR, thuộc Côte Fleurie, là một cảng đẹp
nhứt của hải phận bờ biển NORMANDIE. Một
nơi tàu bè đậu tại Vieux Bassin ;
trong một vàm hải cảng.Du khách rất thích dạo những đường nhỏ đầy kiểu nhà
xưa hai bên lộ, và chờ xem cảnh nhộn nhịp lúc tàu đánh cá về bến đậu, giao
hàng. Đối vời Mỹ, là một hải cảng lớn, ngày càng rộng lớn từ TK XI.Từ 1503 và
1506, hai người sinh quán điạ phương tên
Binot Palmier de Gonneville, và Jean Denis đã rời Honfleur bằng đường biển đến
Brésil và Labrador (bán đảo Canada), và lập tỉnh Québec.(1608).
Về văn hóa, Honfleur có hai Hoạ sĩ trứ danh Ô.Eugène
BOUDIN, tác giả hoạ phẩm ‘’ La
Plage de Trouville (1871), được chưng
bày tại Viện Bảo tàng Pouchkine- Moscou,
và Ô. Claude MONET đã thực hiện nhiều
tác phẩm sơn hoạ rất đẹp, với bút hiệu của ông, một hoạ sĩ thuộc phái ấn
tượng (impressionnisme).
Phái đoàn du ngoạn dạo cảnh
Honfleur, dưới màn trời mưa lấm tấm, và dùng bữa cơm trưa tại các nhà
hàng dọc bờ bến tàu đậu Honfleur, với hải sản (cá biển, sò trai / moule).Buổi
xế dạo phố, và về khách sạn Première classe
tại Deauville cất hành lý.
b /--DEAUVILLE- TROUVILLE.
Sau đó, đến bờ biển Deauville định hóng gió mát, ngắm người đẹp, và du khách. Nhưng
dưới cơn mưa, gió thổi mạnh, đành vào tạm trú
mưa tại Casino sang.
Mưa tạnh, đi dạo đường phố Deauville, nơi khách du lịch
ngoại quốc tại Paris và các tỉnh phụ cận thích đến tấm biển, bắt sò khi nước
cạn chui trốn dưới cát.Khách du lịch
thích tiêu khiển hưởng thú vui đến nơi bãi biển này để dự cuộc đua ngựa, chơi
cờ bạc Casino, bơi lội, ăn uống, nghĩ hè, và ngắm mỹ nhân đầm nằm san sát bán
khoả thân, phơi nắng.
Đặc biệt, Hè 2013 này tại Deauville, có tổ chức Đại hội điện
ảnh Mỹ ‘’ Lucky me ‘’ , trình phim
Mỹ với sự hiện diện của Vincent Lindon,
Chủ tịch Ban giám khảo Đại hội các tài
tử điện ảnh Mickaël Douglas, Cate Blanchett và Nicolas Plage. Đại
hội tuy đã bế mạc, nhưng cờ Hoa kỳ vẫn còn treo
giữ khắp đường phố.
Chiều đền, phái đoàn du ngoạn đến viếng bờ biển Trouville
giáp ranh với Deauville, để ngắm cảnh nước ròng, nhà phố, và ăn cơm chiều trong một tiệm ăn Pháp chuyên môn nấu
bán hải sản, đầy nghẹt thực khách. Đa số, vẫn dùng các loại cá biển, sò moule
Bouchot Mont St.Michel , theo thực đơn
đủ loại và nhiều giá cả khác nhau .
+ Lược sử DEAUVILLE
và TROUVILLE.
Trong tác phẩm ‘’ À
la recherche du temps perdu ‘’ do nhà văn
Pháp Marcel PROUST viết (1913- 1927), thuật tả lại quảng đời tác giả
đã tìm một cách vô ích trong cuộc sống
trong xã hội thượng lưu, thích hưởng
thụ khoái lạc này, một tình thương, một
sự chiêm ngưởng các tác phẩm nghệ thuật, ông đã tìm ra khi khơi kỷ niệm trong
ký ức, và sống hiện tại, có một sự trường tồn, vĩnh cửu của cảm giác, giống
như cảm tưởng do nghệ thuật, và văn hoá đã tạo ra.Tác phẩm ông viết tả một làng
tưởng tượng tên Balbec, do ông đã tìm cảm hứng khi sống tại Cabourg, Trouville,
nơi nghỉ hè lý tưởng, có cảnh sống động và trò tiêu khiển thú vui, nơi các bờ biển này.
Cho đến TK XIX, tại
các vùng này rất yên lặng, chỉ là
bãi đất do sông Touques chảy ra bờ
biển Manche (tại Trouville). Chỉ vài chục
năm, Deauville trở thành nơi bãi
biển nổi tiếng khắp Âu châu, khác với
Trouville thơ mộng hơn.
+ DEAUVILLE.
Năm 1859, một chủ
ngân hàng và một Bác-sĩ hùn vốn mua
cuộc đất để khai thác nơi tắm biển. Đó là nhờ Hầu tước
MORNY, em khác cha với vua
Napoléon III giúp, với sự kiến thiết những biệt thự sang
trọng, vườn tược xinh dẹp. Nền quân chủ Pháp suy vong và tan rã, dự án mở mang này bị đề
áp, trong thời gian ngắn.
Từ đầu TK XX, Deauville là nơi hội họp dân quyền quí cao
sang Âu châu, do đó đồng ý thành lập
Trường đua ngựa tháng 8 mỗi năm
Qua 1912-1913,cất Casino rất lớn, và hai khách sạn sang được xây cùng lúc : Hôtel
Normandy và Hôtel Royal.Thời gian
sau 1923, những lớp ván gổ được lập trên
bãi biển
(Les Planches), cho
du khách dạo bách bộ, và một dãy nhà tấm
công cộng được cất
(1924) và phòng thay y phục.
+ TROUVILLE SUR MER.
Năm 1820, Trouville
còn là nơi câu cá biển .Họa sĩ Paul
HUET và văn sĩ Alexandre
Dumas thường đến.Lần hồi, nhà cửa dọc bờ
sông mọc như nấm , tiệm ăn, khách sạn dẫy đầy.Các họa sĩ Eugène
Boudin, Claude Monet và Camille
Picasso đem giá vẻ đến nơi này, để vẻ những cảnh đẹp.Tại Trouville, còn
tìm thấy thành phố cũ nhà xưa (Vieille ville), lót ván cây (Planches) năm 1867
cho du khách dạo bộ.Viện Bảo tàng
thành phố (Musée de Trouville)và
gần Casino, có xây cất một Ngôi nhà, nuôi cá (Natur Aquarium nuôi các loại cá nước ngọt, nước biển, San hô
biển, cá mập (requins), trong 60 hồ chứa. Ngoài ra, còn tìm thấy nơi nuôi rắn ,
loại bò sát, và cả nhện to lớn (Mygales).
III.--- CÁC BÃI ĐỔ BỘ
ĐỒNG MINH.
Ngày 11-9-13, đúng 8 giờ 30 (ngày N, giờ G ), phái đoàn du ngoạn từ nhiều nước
xa đến Normandie Pháp, để viếng các bãi đổ bộ cũa phe Đồng Minh 69 năm trước tại nơi này (chớ không phải hành quân đổ bộ !). Là
một ngày thật dài (le jour le plus long
/ the longest day) do các Tướng : MINH RAN (Pháp, Chỉ huy Trưởng), B.S L.M.CƯỜNG (Hoà lan), Tổng Tư-lịnh Hành quân,
và BS Ph.H.LẠC, Tổng Cuộc Trưởng CTTL,
hổ trợ tinh thấn và tâm lý chiến binh. Hành trình được diễn tiến như sau, đầy cam go nhưng
thành công.
1.—DU NGOẠN THẮNG CẢNH.
Rời Deauville, dọc
theo Tỉnh lộ bờ biển Côte FLEURIE ngang qua các làng Villers sur Mer, Houlgate,
Cabourg, Ouistreham, Courseulles sur Mer,
xe du lịch dừng nghĩ tại Longues sur Mer, trạm đầu tiên.Sau đó, quày xe trở lại để viếng Arromanches-les Bains,
trước khi trực chỉ đền bãi đổ bộ chánh OMAHA
Beach và cứ điểm cuối cùng,
Pointe du HOC.
Phong cảnh thiên nhiên hai bên lộ làng quê dọc bờ biển này
hao hao tương tợ với nhau, với những hàng cây lớn nhỏ tàng lá xanh tươi sum sê
rậm rạp, nhờ khí hậu miền bờ biển, luôn mát mẻ, đất đai phì nhiêu.Nhìn quang cảnh cây lá hai bên lộ đường, du khách phái đoàn,
với cuộc sống tha hương lữ thứ, đã tìm trong ký ức dĩ vảng những hình ảnh rặng
cây tại lộ nhỏ làng quê VN mà tìm vẻ đẹp của thiên nhiên qua ấn tượng thời niên
thiếu tại quê cũ làng xưa.Du khách vẫn thấy lòng lâng lâng, do ấn tượng
gợi cảm ngày du ngoạn. Chẳng khác nào như nhà văn Marcel PROUST, sinh quán tại Paris, mang chứng bịnh
suyễn đã đến Trouville từ 1907 đến 1914, trải bao mùa hè, nhớ hình ảnh mẹ đã
mất 1905. Ngồi nơi quán nước, uống tách café, anh
gợi ký ức dĩ vãng thời niên
thiếu, như đã tã’’ trong nhạc phẩm ‘’ Cô hàng chè xanh ‘’ VN : …‘’ Nhiều
khi ngồi nơi quán vắng, ta nâng ly café đắng, mong đời được lên hương ‘’….Nay
tại Trouville, nơi quán Đá đẹp (Roches Noires),anh uống tách café nhìn cô bán
hàng xinh đẹp, anh cũng tìm lại cảm tưởng thuở xưa, đó là mặc cảm của ấn tượng,
mà viết văn theo trường phái này.Nay du khách VN cũng do ấn tượng khi nhìn cảnh
làng quê Trouville đã nhớ dĩ vảng : ‘’ Nhìn qua tàng cây xanh lá mướt, ta mơ nhớ thời
niên thiếu, đến làng cũ
quê xưa ‘’ … (Nhạc ‘’ Cô hàng chè xanh ‘’, lời mới !). Do đó nơi này nhiều người VN xa quê, sống tại Paris hay phụ cận, mùa hè thích lái xe chở gia đình ra các vãi biển Cabourg, Houlgate … để ăn hải sản, tấm biển dạo phố, tối ngũ trọ, nấu ăn tại phòng nhà tư nhơn cho thuê rẻ tiền.Nếu là đàn ông độc thân, thì chỉ mang theo một chiếc tăng (tente), lều vải, trải trên bãi cát bờ biển, ngủ qua đêm, khỏi tốn tiền.Ngày thì mang theo thức ăn làm sẵn, nước uống đem theo xe, gia dình ăn ngon, nghĩ mát, tắm biển thoả thích.Nếu khá giả hơn vào tiệm ăn địa phương dùng đồ biển rượu ngon, hoặc vô Casino thử thời vận !.
quê xưa ‘’ … (Nhạc ‘’ Cô hàng chè xanh ‘’, lời mới !). Do đó nơi này nhiều người VN xa quê, sống tại Paris hay phụ cận, mùa hè thích lái xe chở gia đình ra các vãi biển Cabourg, Houlgate … để ăn hải sản, tấm biển dạo phố, tối ngũ trọ, nấu ăn tại phòng nhà tư nhơn cho thuê rẻ tiền.Nếu là đàn ông độc thân, thì chỉ mang theo một chiếc tăng (tente), lều vải, trải trên bãi cát bờ biển, ngủ qua đêm, khỏi tốn tiền.Ngày thì mang theo thức ăn làm sẵn, nước uống đem theo xe, gia dình ăn ngon, nghĩ mát, tắm biển thoả thích.Nếu khá giả hơn vào tiệm ăn địa phương dùng đồ biển rượu ngon, hoặc vô Casino thử thời vận !.
2.--TRẬN HUYẾT CHIẾN
NORMANDIE.
'Trận chiến
Normandie" (Bataille de Normandie) là
một cuộc huyết chiến lớn nhứt Thế Chiến II
tại bi kịch trường Âu châu.
Khởi sự từ giữa các tháng 6 và 8 năm 1944 tại Normandie, các
lực lượng Đồng Minh mở một trận tuyến Âu-châu, chống quân Phát-xít Đức.
Bắt đầu từ 06- 6- 1944 (jour J / D.day), do sự đổ bộ của
Đồng Minh, và những lính nhảy dù của những toán tiền quân, dọc theo bờ biển
miền Tây Calvados, và miền Tây Cotentin.Trận
chiến được dự trù chấm dứt giữa thời gian 19-8-44 (quân Đồng minh vượt sang sông Seine, và đến
21-8-44 (vây bọc bít kín lõm hải khẩu của tường đá vôi (Poche
de Falaise), nhằm giải phóng Paris thoát khỏi ách đô hộ Đức ngày 25-8-44.
Một số sử gia khác, cho rằng chiến trận Normandie kết thúc
ngày 12-9- 44, sau khi giải phóng Le Havre.
Trận chiến này là cuộc hành quân đại qui mô về thiết kế tiếp
vận đổ bộ : Ba triệu lính, đa số là
quân đội Mỹ, Anh, Gia nã đại và các lực lượng đồng minh khác (Pháp, Ba-lan, Bỉ,
Tiệp khắc, Hoà lan, và Na-uy).
Họ đã tràn sang biển Manche để đổ bộ, với lối 130.000 quân
ngày J (D.day).
Mục phiêu Đồng minh trong cuộc đại hành quân là lập một
mặt trận thứ 2 do Staline, chủ xướng từ 1942, từ Tây Bắc Âu (Hành
quân Overlord) lấp đầu cầu mặt trận, nhằm mở cửa khá nhanh vào trung tâm Đức
quốc. Lý do là sự tiến quân của Ý đại lợi quá chậm, không thể tiến nhanh nơi Âu châu.
Kế hoạch thực hiện nơi trận địa Normandie gồm 2 thời kỳ :
1./-- Chiếm một đầu cầu, để làm đầu mối lộ trình tiến quân
chiếm Caen và hải cảng Cherbourg.
2./-- Nới rộng khu vực bằng cách chiếm Bretagne và các hải
cảng mặt biển Đại Tây Dương một phàn, và
tiến quân đến chiến tuyến Le Havre, Le Mans, Tours phần khác. Chiến tuyến này
dự trù là 40 ngày, tiến đến nhanh nhứt 30 ngày (đầu tháng 9 /1944 ), tại miền
Nam sông Loire, và Đông Bắc sông Seine.Trận chiến tại Normandie được dự trù là
tàn khốc , và cuộc chiến tiếp theo rất cam go khi tiến quân theo dự định cuộc
hành quân một còn một mất.
Bắt đầu từ 14-1- 1943 , nhân cuộc hội ngộ ba lãnh tụ cường
quốc Mỹ, Anh, Nga, tức Rosevelt,
Churchill và Staline tại Casablanca, Staline thiềt tha đề
nghị ngoài trận tuyến 1 Tây Âu châu, nên mở trận tuyến 2 ở Đông Âu, để đở nhẹ gánh
nặng của Nga tại Âu châu.Kế hoạch Máy
bay săn giặc Không quân và Tiếp vận, có đề nghị 2 nơi đổ bộ : Pas de Calais hay
Normandie ?. Mặc dù Pas de Calais có nhiều bãi thuận tiện mở đường sang
Đức, nhưng tiên đoán Đức sẽ phòng thủ vững kỹ nơi này.Do đó, Normandie được
chọn.
Ban Tổng Tham Mưu cuộc hành quân do các Tướng Mỹ Dwight Eisenhower , và Anh Bernard Montgomery được đề cử chỉ huy các lực lượng
đồng minh hổn hợp đổ bộ từ các tháng 12-1943
và 01- 1944.
Ba Sư đoàn do Hải quân và
hai Lữ đoàn do không quân vận chuyển cuối cùng, được thay đổi ngay thành 5 Sư đoàn
do Hải lực, và 3 Sư đoàn do Không
lực phụ trách.
+ Chiến dịch ‘’ lừa
địch ‘’ :
Hệ thống tình báo Đức, đặt tại miển Nam Anh, và Pháp rất tinh vi, nhưng vẫn
bị đánh lừa :
Ngày Jour J (D Day),
đầu tiên chọn vào 01- 5- 1944, sau dời
lại 01- 6- 1944,
cuối cùng là 06-6-1944.Lý do hoản 1 tháng để đóng thuyền ghe
vuôn nhỏ thêm chở binh đổ bộ bằng đường
biển.Và ngày cuối cùng được dời (6- 6- 44) vì điều kiện thời tiết bất lợi.
Điểm lừa gạt khác là dụ địch lầm tưởng điạ điểm đổ
bộ :Pas de Calais, thay vì Normandie (chiến dịch Fortitude / quả cảm quyết chiến) :
Một quân đội giả tạo được rầm rộ thành lập :’’ First US Army Group ‘’ do tướng Mỹ danh tiếng
PATTON ‘’ch ỉ huy ‘’, dùng phương
tiện chiến đấu giả (xe tấn công thổi phồng, ngoài sơn màu như thật), và gởi truyền tin mật báo, chuyển lịnh và nhận
thi hành với nhau.Tình báo Đức bắn tin thông báo cấp chỉ huy, tưởng thật và huy
động nhiều sư đoàn thiết giáp tập trung tăng cường bảo vệ Pas de Calais (chiến
dịch phản gián ‘’ double cross ‘’ của
Đồng-Minh). Những xe thiết giáp Mỹ vừa chạy trên bộ, vừa lội nước ‘’
Tanks Sherman ‘’, và thiết xa gở mìn làm
cầu và công binh, thuộc Sư đoàn Thiết Giáp 79, được đặt dưới sự chỉ huy Tổng Tham mưu trưởng Percy HOBART.Tất cả các loại xe này mang tên
Hobart ‘ s Funnies (ménagerie de Hobart / phương tiện
đa dụng linh tinh).
Về phần Đức quân từ tháng 11/1943, Erwin Rommel được Hitler
cử chức Tổng Thanh Tra phòng thủ bờ biển, và Tổng chỉ huy quân lực ‘’ B ‘’ Đức (Bắc Pháp).Những loại xe
Tanks PANZERS phản công hữu hiệu chỉ
được giao sử dụng nơi Normandie
thôi.
Còn chức Tổng Chỉ Huy
Trưởng Quân lực Tây Âu thì giao cho Thống Tướng Đức Gerd Von
Rundstedt, được Tổng Thanh tra
Thiết Giáp xa Heinz Guderiau trợ lực. Toàn thể quân lực đều do Hitler
chỉ huy tối hậu khi cần.
Lực lượng chính yếu là đổ bộ bằng đường biển, do các loại xe
LCVP (Landing Craft Vehicule Personal)
dùng ngày 06-6-1944 để đổ quân.Ngoài ra,
những lính nhảy dù được phi cơ vận chuyển đến hành quân, sau khi oanh tạc dội
bom.
Chống đối thủ duy nhứt là quân đội Đức, đa số là lính thiện
chiến, với thiểu số hổ trợ gồm tù binh
Nga bị bắt trước tại Đông Âu, bị bắt buộc chiến đấu phòng vệ Bắc Pháp (mur
de l’Atlantique). Lực lượng Đồng Minh gồm
có 10 nước : Mỹ , Anh, Gia nã đại, quân đội giải phóng Pháp, quân đội
Ba-lan về phía Tây, lực lượng Tiệp tư do,
Na-uy, Bỉ, Úc, Tân Tây Lan.
Năm bãi biển được
chọn để đổ bộ là Utah Beach (Mỹ),Omaha Beach (Mỹ), Gold Beach (Anh và Gia nã đại), Juno Beach (Canadiens),
Sword Beach) Anh.
Lực lượng dự trù là 326.000 người (02- 6-44) không kể chiến
sĩ cách mạng Pháp rải rác khắp nước.
Chiều ngày 06-6-44, tổng số chiến sĩ lên đến 156.000 người
đặt chân lên đất Normandie : 17.000 lính nhảy dù, 56.000 lính Mỹ đổ bộ lên các bãi Utah,
Omaha, và 83.000 lính Anh, Gia nã đại đổ
bộ lên các bãi được chỉ định.Tổn thất
Đồng Minh riêng ngày này là 10.300 người (1 / 3 tử trận, lối 3.000).
Tổn thất vật liệu : 2 tàu chiến, 131 xe lội nước đổ bộ lên bờ, 117 xe chở Bộ binh cận chiến
tấn công, 43 xe chở Bộ binh chiến đấu, 27 phi cơ rơi mất, và 63 phi cơ hư hại. Phe
Đồng Minh gặp nhiều trở ngại ngày đổ bộ, nhứt là quân Mỹ khi tiến đánh bãi OHAMA : nước biển
ròng, chướng ngại giết người giăng bẩy khắp nơi (mìn, giây kẻm gai) bờ tường
bãi biển (falaises) đầy hầm trú ẩn chống cả phi cơ oanh tạc, đồi cát …
c-/-LỊCH TRÌNH ĐỔ BỘ :
-- Từ O g 10 :
tiền quân Anh do ba phi cơ bay liệng
lính giả (poupées) lừa địch, gần Saint-Lô nội địa phía Nam Bessin gần vùng Manche,cách xa bờ biễn.
-- O g 15 : tiến
quân Mỹ nhảy xuống phía Tây Utah Beach.
-- 1 g 30 :Mỹ nhảy dù xuống St. Mère Église cạnh Utah
Beach, và Anh xuống Merville, tổng nhỏ gần Gold Beach
-- 5 g
50 : Những cuộc dội bom do hải lực
bắt đầu.
-- Từ 6 g
đến 6 g
30 phi cơ loại trung bình tấn công dội
bom các đồn phòng thủ Đức. Lúc đó quân nhảy dù Mỹ nhảy xuống Utah Beach và
Ohama Beach .
-- 7
g 10 :Biệt kích Rangers Mỹ tấn công Mũi HOC.
-- 7 g 30 : Anh và Gia
nã đại đổ bộ lên ba bãi được giao phó : Sword Beach
-- Juno Beach
-- Gold Beach .
Đặc
biệt là lúc sáng tinh sương 06- 6- 44 , 180.000 lính Đồng Minh và Pháp chuẩn bị đổ bộ tiến 5 bãi biển
Normandie.Trong số lính do Anh diều khiển đổ bộ tại bãi Sword Beach, để giữ thể
diện nước Pháp có 177 hải biệt kích hổn
hợp Pháp Anh (commando de marine) đội KIEFFER , tên của chỉ huy trưởng Philippe KIEFFER, xung phong
đầu tiên, nhằm tiến chiếm Ouistreham (Sword
Beach) và Pegasus Bridge, cầu bắt
trên sông Orne, để tiếp ứng đội lính nhảy dù Anh, đã chiếm nơi này trong đêm.
Kết quả cuộc huyết chiến phá chiếm
Casino do Đức biến thành pháo đài kiên
cố tại Ouistreham bên Đồng Minh là 20 người chết và 50 bị thương trong ngày J (D).
Những cuộc
đổ bộ tiến chiếm các bãi đã thành tựu, tuy rất tổn thất, theo các giờ sau đây
ngày J (D day) :Utah (8 g ), Juno (8g45), Sword (9 g30),
Omaha (10g),
Gold (10g 45).
Sau khi dứt
điểm phòng thủ địch nơi bãi biển, các đội xe thiết giáp, quân xa tiến vào đất
liền bên trong :Các lộ trình Caen-Bayeux
được nối liền lúc 20giờ do Sư đoàn Bộ binh 50 của Anh, quân đoàn 1 của
Mỹ do Tướng Bradley chỉ huy mở đường thông suốt từ St.Mère Eglise
(gần bãi Utah Beach đến Bayeux), và liên quân đội Anh, Gia nã đại khai lộ
giao thông từ Bayeux phía Tây đến phía Đông sông Orne (tức 3 bãi biển do
liên quân này phụ trách).
Đúng 6 giờ
chiều cùng ngày con đường xa lộ Pháp Đức được khai thông đến Berlin, nhưng
những trận huyết chiến tiếp diễn giữa hai phe tại Normandie kéo dài đến cuối
tháng 8-1944 mới chấm dứt.
Nhày dài
nhứt 06-6-44, tuy tạm thành công tại các bãi đổ bộ, nhưng chưa chấm dứt hẵn tại
bờ biển Normandie, vì còn một cứ điểm do Đức tử thủ : La pointe du Hoc (mũi
Hoc) chưa dứt điểm
Là một
thắng cảnh thiên nhiên của bờ biển Normandie, nếu thế chiến không lưu mặc cảm.Một
dãy bờ tường đá vôi sừng sửng cao 35 thước nhiều nơi, chịu bão táp, cuồng phong
biết bao năm tháng nhưng vẫn vững chắc với thời gian. Được quân Đức chọn đặt
một dãy súng đại bác, và phòng thủ tối
kiên cố dọc dài bờ biển.
Muốn đánh
phá cơ cấu khó chiếm này, nhiệm vụ tối quan trọng được giao phó cho một đại tá
Mỹ Texas tên James PUDDER, một
huấn luyện viên cầu thủ của một Trung học Mỹ.Cuộc tập dượt hành quân khó
khăn này, cần tìm một cảnh giống như Pointe Hoc
tại Anh.Với 225 biệt kích Mỹ, sau nhiều tuần luyện tập thuần thục, với
việc sử dụng các giây có móc neo (lance grappin), thang giãn xếp, và giây
thắt gút.
Ngày 6-6-44,
cuộc chiến không thật khó như dự trù, nhưng không may là gặp sương mù, sóng to
cao hơn một thước, người lái thuyền đổ bộ điều khiển sai luồng gió, nên một
chiếc ghe lật chìm. Đến khi tiến đến đích, thì lọt ngay tầm súng địch !
Lúc 7g10 toán biệt kích Mỹ leo lên bờ đất, 5 phút sau một biệt kích trèo lên
đỉnh cao thành bờ biển, những người khác
phải núp tránh đạn bắn rào như mưa. Điều khó là làm sao giết bắt địch núp trốn dưới hầm béton dày.Cần 2 ngày
trời mới thành công :Ngày 7-6, họng
súng đại liên Đức bị diệt nhờ súng phun
lửa Mỹ.Chỉ huy Đức ẩn trốn tử thủ nơi hầm phòng không, chống cự đến ngày hôm
sau.Kết quả, sau khi chiếm đồn lính biệt kích Mỹ chỉ còn sống lối 90 người.
Tai hại hơn
nữa, là quân Đức phòng thủ bờ biển
Normandie với 6 đại pháo nòng to 150
m m, khiến Đồng Minh lo ngại. Những súng đại bác thật,
Đức đã che dấu nơi kín đáo, trong những cánh đồng xa bờ biển để tránh bị phi
cơ Mỹ dội bom.Còn khi hạ được hầm phòng thủ béton tại mũi Hoc, thì đa số
biệt kích bị chết, mà kẻ còn sống chỉ thấy những lớp vách ván gổ dảy chịu đựng
tường đất dưới hầm với số ít lính Đức bỏ
thây thôi !.
Sự lừa đối
thủ Đồng Minh này tại bãi La Pointe du
Hoc là một bài học đắt giá cho các Trường huấn luyện quân sự Mỹ, Pháp và
Đồng Minh, đề rút kinh nghiệm, tránh
ỷ y đánh giá lầm chiến thuật cáo già của địch.
3.-PHÁI
ĐOÀN VIẾNG CÁC BÃI ĐỔ BỘ.
Lịch trình
viếng các bãi đổ bộ đoạn chót có phần lủng củng, do sự kém chuẩn bị chu đáo của bộ chỉ huy hành quân của phái đoàn VN, trước khi
xuất quân.
Rời Deauville, phái
đoàn ghé bãi đầu tiên tại Longues sur Mer (Gold Beach).
a. / + LONGUES
SUR MER.
Là một làng nhỏ xa bờ
biển, lập chung quanh di tích một Tu viện
St.Marie cất từ 1618.Gần
biển chẳng có bãi cát, mà chỉ vài
vịnh nhỏ giữa thành bờ biển cao, cảnh hoang vu gió thổi mạnh mà Đức chọn xây
hầm béton đặt vài đại pháo.Xây từ 1943, cứ điểm này đáng lẽ chống ngăn hữu hiệu
Đồng Minh đổ bộ, nếu hoàn tất việc xây
lập.Vì không lực Đồng Minh đã liệng bom
nơi địa điểm, khiến chưa hoàn thành trước ngày J. Sau 20 phút pháo chiến đại
bác Anh ‘’ AJAX ‘’ đã ngưng tiếng súng địch.Nhưng 4 đại bác 152 ly Đức đã nỗ
súng mãnh liệt.May nhờ Tuần dương Hạm
Pháp đã bắn 2 lần trúng đích địch
nên lặng im, nhưng vẫn chống cầm cự bởi đại liên.Ngày 7-6-44, địch quân Đức đầu
hàng Anh từ Arromanches tiếp viện. Dân
chúng được sống bình an, ngủ yên …
Các du khách chụp ảnh
lưu niệm tại các hầm súng đại bác Đức.
Thay vì tiếp tục tiến xe du lịch đến Omaha Beach theo ý đồ
Tướng MINH RAN (Pháp), Tướng Cường (Hoà Lan) nhứt định cho quày xe
lại cách 5 cây số để viếng bãi biển Arromanches.
b.--/ ARROMANCHES LES BAINS. (tên từ ngữ do rạch Arro chảy ra bãi biển Manche).
Là một bãi biển tấm nhỏ, thuộc bãi biển Gold Beach, không
thể sử dụng để Đồng Minh đổ bộ.Thất thủ ngày 6-6-44 bởi bộ binh nhưng đồn phòng
thủ Đức còn cầm cự một thời gian. Lịch sử bãi đổ bộ nhân tạo này được diển tiến như sau :
Churchill và Lord Mountbatten (Anh ), đã trù tính.Bí mật lập một hải cảng nhơn tạo, đặt
tên là Mulberry "B" hay "Wiston" tại Anh suốt 8 tháng từ 1943 : Kế
hoạch là dùng 115 thùng sắt to, mỗi
thùng nặng từ 3.000 đến 6.000 tấn tên
Phoenix, làm thủng 60 chiếc tàu nhận đấm
chìm dùng làm vật nổi trên mặt nước, cản chân sóng biển, dài
đến 8 km .Một
nền kim khí bằng phẳng được lập rộng 1.000 m2
trên các thùng sắt nổi ngăn chận
sóng, nối liền 4 cầu nổi dài dùng chuyển vận lên bờ đất liền.Ngày 9-6-44 tất cả
dụng cụ được di chuyển trên đường
biển bằng 200 chiếc tàu kéo theo sau tàu chạy trước (remorqueurs).Trong 12 ngày,
cầu nhân tạo Arromanches ráp xong, giúp vận chuyển lên bờ 400.000 xe, 3 triệu
tấn dụng cụ, 2 triệu rưởi lính chiến, 600 súng phòng không DCA và vô số ballons tiếp vận người và vật
liệu được điều khiển đến mục tiêu được
chọn cho Thế chiến II.Hiện
nay, ngoài biển khơi Arromanches, còn lối 20 thùng sắt nổi trên mặt nước
và một số khác nằm nơi bãi biển. Thắng
cảnh kéo lôi du khách xem nơi này ngoài chiếc
đại bác Đức loại nòng nhỏ bị tịch thâu chưng bày nơi công cộng, còn có
Bảo tàng viện kỷ vật đổ bộ một rạp
Ciné quây tròn 360 °, chiếu trên màn ảnh vĩ đại một
cuốn phim tên ‘’ Le Prix de la
liberté ‘’ (Trị giá của Tự do) (20
phút), xen lẫn với đoạn phim thời
sự chiếu
cảnh đoạn trường và hy vọng, đau
khổ và mục-ca (cảnh mục đồng).
Hấp dẫn hơn cả, là trên lộ gần bãi biển dẫy đầy quán ăn, bán
hải sản, đặc biệt là sò hàu danh tiếng ‘’ asnelles ‘’ mà toàn phái đoàn không được dịp thưởng
thức vì thời gian tính.Một
tai nạn nhỏ xảy ra cho một nữ du khách, sau khi xe đậu tại Arromanches
vì sơ ý khi bước xuống lề lộ, nên té nhẹ nhưng sây-sát da lòng
bàn tay. Được báo tin, đấng phu quân
đi trước vội quày lại chữa
trị cầm máu, sát trùng
cho vợ .Vị quân- y sĩ này vì du ngoạn muộn, và mải-miết xem phim thời sự chiến tranh, nên khiến du khách
đồng hành không dám rời xe
để tìm thức ăn trưa dằn
bao tử !.Cuộc hành trình
tiếp tục tiến thẳng đến bãi
OMAHA B each, sau khi rời khu chiến
Anh- Gia-nã- đại.
c.--/ OMAHA
BEACH :
Là một bãi biển, mang
tên lịch sử muôn đời "OMAHA",
nối liền 3 làng an bình :
Vierville sur Mer, Colleville sur Mer và St. Laurent sur Mer.
Từ 6 g
30 ngày 6-6-44, Sư đoàn I ‘’ The Big Red
One ‘’ và Sư đoàn Bộ binh 29 của Mỹ, tiến
từng đợt để đổ bộ tấn công Omaha
Beach.Nhiệm vụ họ là sau khi
chiếm bãi, sẽ tiến sâu vào đường
bộ quốc lộ 13 nối liền Isigny sur Mer đến Bessin. Đồng thời
tiếp chiến Tiểu đoàn 2 Biệt
kích Mỹ đổ bộ tại Mũi HOC, và tiếp viện Tiểu đoàn
47 Biệt Động hãi quân hoàng gia Anh tại phía Đông.Nhưng
chương trình suýt thất bại vì các lý do :
-- Thời tiết xấu,
cuồng phong sương mù, tàu chiến bị nước
biển ròng kéo lôi xa và thiết giáp xa
nhằm bắn trọng pháo giúp lục quân bị kẹt ngoài
khơi biển vì sóng to gió lớn.Chỉ 2
xe thiêt giáp lên trên bãi, tiến chậm vì trở ngại lớn.
-- Đổ bộ lên bờ, chiến sĩ Mỹ bị trì hoản do các bãi mìn giăng đầy, và kẻm gai ngăn cản.
Lực lượng Đức đặt
trọng tâm nơi bãi này, nên cả rừng súng hoả lực Đức tàn sát Mỹ quân.Không nơi trú ẩn, chỉ chờ hải
triều lên thu hẹp lối ẩn trú kín đáo để cứu mạng.
Lúc 8 giờ, tổn thất nhân mạng lính Mỹ và
chiến cụ thiệt hại rất nặng.Nhờ sự
can đảm vài chiến sĩ, được bảo vệ bởi pháo binh Hải lực, Mỹ đã dần
dần chuyển bại thành thắng,
tiến sâu vào nội địa lối 2km. Cuộc đổ bộ tại Omaha Beach tưởng đâu đả thất bại, để chuẩn bị
cuộc hành quân sau : Trên 38.000
chiến sĩ Mỹ rời tàu lên đất liền, 3.000
lính đã bỏ thây, thiệt hại lớn nhứt trong các cuộc đổ bộ.Qua ngày sau 7-6-44,Mỹ liền lập cầu nổi tiếp vận để giải phóng Âu-châu Mulberry A nơi bãi Vierville sur Mer, để
hoàn thành nhiệm vụ nói trên, và tiếp vận nhân vật lực.
Do đó, quang cảnh Nghĩa trang OMAHA được ân huệ Pháp đặc
nhượng cho Mỹ suốt đời cuộc đất để chôn
đến hơn 9.000 nhơn mạng, tử trận tại các chiến cuộc Normandie.
Một nghiã trang minh
mông đầy thập tự gíá, ngay hàng thẳng lối tạo cho ấn tượng du khách một
cảm tưởng u buồn khó tả.Trước nghĩa địa
được xây một hồ nước dài lớn
chưá đầy nước và một dài chiến sĩ trận vong được lập với bức tượng đồng điêu
khắc tinh vi hình lực sĩ vạm vỡ liều thân đền nợ nước. Trên vách tường vòng cung
hai bên có tả tỉ-mỉ các cuộc đổ bộ của
Đồng Minh.
Một quang cảnh thiên nhiên
mâu thuẫn với nơi vùi thây hằng vạn tử sĩ, là hiện nay du khách khắp nơi
khi viếng bãi đổ bộ Normandie là cốt ý đến
nơi Nghĩa trang OMAHA, một trong
các bãi biển đẹp nhứt của vùng Normandie (hay Calvados).Vì nơi bờ biển dẫy đầy
thắng cảnh đồi cây xanh, bãi cát trắng dài vô tận này, mà mỗi dịp hè người địa phương đến tắm biển với nhiệt độ là 18° C hay 19° C.
Nơi này, còn được lập ‘’ Bảo tàng viện
kỷ niệm ‘’ (Memorial Museum / Musée
mémorial) chiếu phim trình bày
hình ảnh các chiến
sĩ Mỹ mặc
quân phục vũ khí, xe thiết giáp,
đại bác, và các trận đổ bộ.
Phái đoàn du lịch sau cuộc viếng nghĩa trang được hài lòng về tinh thần chụp ảnh kỷ niệm, nhưng vẫn
nhịn đói đến địa điểm cuối cùng là Mũi HOC (La Pointe
du HOC).
d. / LA POINTE DU HOC.
Như cảnh đã tả đoạn cuối, lịch trình đổ bộ nơi này là một trận tuyến, còn nguyên vẹn hình thái quang cảnh thiên nhiên. Dãy đồng bằng đất trống quanh địa điểm dẫy đầy đường hầm do quân Đức đào, và những hố sâu miệng lớn, là di tích các cuộc dội bom Đồng Minh nhằm giảm sút cường lực phòng thủ địch từ tháng 4-1944.Tổng số bom được dội là 698 tấn. Quanh đồn trú béton đào sâu dưới đất của Đức, chu vi bao đầy kẻm gai, gây trở ngại cuộc tiến quân biệt kích Mỹ với nhân số 225 người .Trọng pháo Đức tầm xa Đức có thể bắn dài
Phái đoàn du lịch, do các quân y sĩ cùng khóa còn trẻ tuổi, khỏe mạnh, xông xáo di chuyển đến các hầm trú dù phải leo cao,
xuống thấp lối đường đất mòn và xuống
tận đáy cứ điểm phòng thủ Đức để quan sát, chụp ảnh cho đáng chuyến đi du lịch.Trong khi đó, các
vị phu nhân hoặc do hiếu kỳ, đi đoạn đường ngắn, hoặc ngồi nghĩ ngơi trên xe du lịch chờ lang quân
về .Ngoại trừ nữ chiến sĩ trẻ
tuổi Kim Chi, kiêm ca-sĩ Tâm lý chiến, đã đến tận khắp nơi, kể cả trên đỉnh cao bờ tường đá vôi,
có trồng cây tháp nhọn cao, ghi công thắng trận để chụp ảnh các Falaises lưu niệm, mặc tình gíó to ù ù thổi, suýt ngã nghiêng người.
Sau khi viếng cứ điểm
chót các bãi đổ bộ Đồng Minh Thế
chiến II tại Normandie, La Pointe du Hoc, (còn được gọi là Bãi
đổ bộ thứ 6), đầy gian nguy
hiễm- hóc, được giao phó cho Biệt kích Mỹ (Rangers), phái đoàn du
ngoạn trở về Paris với
cảm giác lặng yên khó tả.
Kết quả tổn thất sau ngày 06-6-44 như đã kể nơi Chương trình Đổ bộ (III- 2- b), là
10.300 người (3.000 tử trận) trên tổng
số nhân lực 156.000 đổ bộ (17.000 lính dù, 56.000 lính Mỹ đổ bộ Utah Omaha 83.000 lính Anh, Gia nã đại).
Tổng kết tổn
thất chung khi TC II chấm dứt là 200.000 tử trận và bị thương,
một kết
quả bảo vệ tự do nước bạn,
với giá thật đắt.
Phái đoàn vẫn không ăn trưa, xế có ghé tạm
mua thức ăn dọc đường , để về
Paris kịp trước nửa đêm.Trên
đường về, còn dịp dừng chơn tại Nhà Thờ LISIEUX
(Basilique Sainte Thérèse).Sanh ngày 2-1-1873 tại Alençon, bà Ste
Thérèse là giáo dân trong gia đình đạo
dòng.Mất mẹ lúc lên 4 tuổi, lúc gia đình
về Lisieux cư ngụ, khác hơn các chị vào
Tu viện, bà muốn vào nhà kín dòng Carmélite, để hiến cuộc
đời với Chúa Jésus.Vào Thánh đường Lisieux ngày 9-4-1888 (15 tuổi), bà
sống thêm 9 năm, từ trần ngày 30- 9- 1897 (24 tuổi).Bà được Đức Giáo Hoàng Jean Paul II
phong Thánh ngày 19-10- 1997.
Chỉ tiêu cuộc
đời bà là : Tình thương (tức
là ban cho kẻ khác, và tự hiến thân).Thánh thể của Thánh nữ St.Thérèse còn lưu giữ tại Đại Giáo Đường Lisieux. Trên
quảng đường thiên lý về
Paris dài gần 200km, nhờ Tổng Cuộc Trưởng CTTL, Lm P.h.Lạc điều khiển cuộc hát ca,
kể chuyện, do các vị Nữ chiến
binh cuộc Hành quân
Normandie tham gia nhứt là Nữ Ca
Sĩ Kim Chi, với giọng ca tuyệt
vời, gợi cảm khiến toàn thể bớt mệt, vui vẻ. Phái đoàn về
một mạch đến Paris lúc 21 giờ, và mỗi
người tự hối hả tìm nơi ăn tối hoặc về nhà riêng nghỉ ngơi phục sức.
KẾT LUẬN :
Cuộc du ngoạn
Normandie tuy vỏn vẹn ba ngày, nhưng toàn thể du khách hài lòng, tuy có vài
lủng-củng nhỏ. Đó là chuyện vô thường, chuyến
đi được kể như thành công, tuy
nhọc mệt, nhưng đi về được bình an vô sự.
Như đã hứa, bài tường thuật
về du ngoạn sẽ được tường trình
với người đồng hành, và quý bạn đọc giả xem tiêu khiển, nếu muốn.
Bài khảo cứu tuy quá dài, nhưng hy vọng gần
đầy đủ chi tiết , được kèm thêm các ảnh đẹp do quý vị cùng đi, đã chuyển gởi và ảnh độc đáo khác, do nhờ chuyên viên Văn Phòng LĐXH
phụ họa thêm nhìn đở chán !
Xin cảm tạ tất cả quý vị đã giúp hoàn mỹ bài tường thuật .Mục đích chánh chuyến du ngoạn được thuật
tã là ngoài sự hiểu biết thêm các địa danh sau hai Thế chiến và
chiến cuộc đổ bộ của Đồng Minh.Hằng triệu tử sĩ đã bỏ mình vì chánh nghĩa bảo vệ tự do, cho nước
bạn. Đến năm 2014 là kỷ niệm 100
năm Thế chiến I, và 70 năm
Thế chiến II.Nhưng kẻ chịu
ơn còn nhớ đến người
giúp ơn chăng ? Và các quốc gia hùng mạnh tiến
bộ khoa học kỹ thuật khác vẫn mưu đồ gây chiến để bảo vệ lý tưởng chánh
trị, tôn giáo, quốc gia, hay chỉ nghĩ tư lợi mà quên cứu nước, gìn giữ non sông
bờ cõi nước nhà ?.
Về thế chiến II, các
cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng- Minh tuy đã thành công vài ngày sau ngày
6-6-1944, khi đã chiếm các cứ điểm phòng
thủ của Đức dọc bờ biển Normandie. Nhưng với lực lượng tử thủ của Đức tại hậu
cứ cách bờ biển 30 km vẫn còn hùng hậu.Và các thiết
giáp xa Panzers của Đức cố thủ
nơi Pas de Calais vì sai lầm do tình báo
địch Đồng-Minh gài bẩy, đã quày lại Normandie
để tử chiến.Cuộc phản công của Hitler và các Tướng lãnh Đức kéo dài đến 12-9-44,
mới chấm dứt chiến trận Normandie, theo một số sử gia, như đã nói
nơi trước.Bài tường thuật này chỉ lược tả cảnh mắt thấy
tai nghe ngày du ngoạn và căn cứ theo tài liệu tham khảo.Nếu có dịp,
xin sẽ thuật kế tiếp chiến cuộc hai
tháng sau ngày đổ bộ 6-6-1944 tại Bretagne (Normandie), đầy máu đổ
rất khủng khiếp, qua tài liệu báo chí
địa phương năm 1994 tại Bretagne, sau 50 năm kỷ niệm.
Vài chi tiết nhỏ về
ngày đổ bộ 6-6-44 sau đây không thể bỏ qua, và được thuật kể :
+ Từ đầu tháng 6- 1944 một
trận bảo thật to xảy ra tại biển
Manche.Lầm tưởng là Đồng Minh không thể nào thực hiện cuộc đổ bộ trước thời tiết rất xấu này, nên Tướng Đức
Erwin ROMMEL trở
về Đức để dự tổ chức lễ sinh nhựt vợ Ông
+ Các Tướng lãnh Đức khác hành quân tại Pháp ,
đều tập họp tại Rennes để tổ
chức chiến thuật chống phe Đồng Minh.Và
rất may là ‘’ Thời tiết ‘’ đã ban ơn cho Tướng Eisenhower một ngày nhẹ gió bão hơn, để tung chiến cuộc Overlord.Khi các quốc
gia Đồng Minh đổ bộ, Hitler vẫn
ngủ ngon, và không ai dám đánh thức để báo cáo !
Và khi thuật kể chiến lược, chiến thuật của lực lượng Đồng
Minh, chống Đức lúc Thế chiến II , tôi sực nhớ lại sử tich
Tàu về ‘’ Tôn Tử Binh Pháp ‘’ Bộ Binh thư của Tôn
Vũ đời Chu soạn, thường luôn nhắc kẻ cầm
binh hành quân nên nhớ mẹo ‘’ Dương Đông kíchTây ‘’, chân giả luận, và không
nên ỷ lại, lượng sức mình, chớ khinh địch, và lợi dụng thời tiết.
Về điểm này, dưới thời Tây Thục, Đông Ngô, trong trận ‘’ Xích Bích ‘’, Khổng Minh lập đàn cầu ngọn
gió Đông, và cột thuyền dụ Lỗ Túc đốt thuyền Tào Tháo chạy cháy râu !
Tại Việt-Nam, cũng áp dụng hỏa công nơi trận Rạch-Gầm Xoài Mút , chận đốt cháy thuyền quân Xiêm, khi nước rút nơi Xoài Mút.
Điều quan trọng khác trong chiến lược khai thác đối thủ
là : Tình báo hay Gián điệp.Thành
công hay thất bại đều do mật báo đúng hoặc sai, phản gián tài tình.
Nhưng tệ hại hơn là ‘’ bí mật ‘’ bị ‘’
bật mí ‘’ :Gián điệp giữa ‘’ Ta và Địch ‘’ và ‘’ Bạn và Ta ‘’ rất tế nhị
và nguy hại.Nhưng kém tác hại hơn
là kẻ nối giáo giặc hay địch để mãi quốc cầu vinh, an thân thủ phận, bán
linh hồn cho Quỷ …. ?, bằng
cách cắt xén hiến dâng một phần đất lãnh thổ quốc gia cho ngoại
xâm !
Xin luôn nhớ câu châm ngôn Hán Việt : «Nhứt tướng công thành vạn cốt khô».
Nay xin đổi lại : « Cứu một quốc gia, triệu thây phơi» !
Để kết thúc, xin hiến vài vần thơ mộc mạc sau đây để lưu
niệm về hậu quả Hai Thế chiến.
Thế chiến lần đầu gần
trăm năm (1)
Hơn triệu chiến sĩ
chết âm thầm
Đồng minh giúp Pháp vì chánh nghĩa,
Picardie
thoát ách ngoại xâm.
+++
Sông Somme
máu nhuộm vịnh ao đầm (2)
Nạn nhân
chiến trận, đã khổ tâm
Thân nhân
bỏ mạng, vì lý tưởng ?
Phân tán
gia đình, mất tình thâm.
+++
Nghĩa địa điệp trùng tử sĩ nằm,
An giấc
ngàn thu, oán hận căm
Hoa hồng
thắm máu, tràn đồng đỏ (3)
Biểu tượng Amiens , khắc ghi tâm
+++
Đồng minh mười nước đã hiệp tâm
Đổ bộ diệt tiêu pháo đài Đức,
Giết sạch địch thủ, ẩn hang hầm.
+++
Tổn thất nhân mạng thật
trọng trầm
Omaha, lính Mỹ yên nằm
Gần vạn sanh linh thành uổng tử (5)
Pháp Mỹ trọn đời,
phải đến thăm.
+++
Thế chiến là bài học uyên thâm
Cớ sao nhân loại luôn lỗi lầm
Xâm lăng giết hại, dùng hơi độc
Giết người oan uổng, quá ác tâm !
TRẦN VĂN
TRUNG
CHÚ THÍCH :
(1)-- 1914-2014 =
100 năm
(Thế chiến I).
(2)-- Baie de la Somme
(3)-- Hồng huyết
hoa (Coquelicot)
(4)-- Thế chiến
II (1944- 2014 = 70 năm)
(5)-- Omaha
Beach : Nghĩa trang Mỹ chôn 9.000 tử sĩ TC II
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
-- Voyage en Côte Picardie (Punch Editions (Mai 2003)
(La Baie de Somme et ses vallées riantes)
-- Picardie (Guides
Bleus /Edition Hachette (Avril 2007)
-- Picardie (Le guide du Routard 2009/2010)
-- Normandie (Guides Bleus / Hachette /2011)
-- Normandie (Guides
du Routard 2011/2012)
-- Basse Normandie (Geo Guide 04 /2012)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét